Vaccine AVAC ASF : Tiến trình thương mại hóa và những thách thức thực tế

27-Th10-2025
X
XLinkedinWhatsAppTelegramTelegram
Vaccine ASF do AVAC Việt Nam phát triển đang bước vào giai đoạn thương mại hóa với những tín hiệu khả quan, song vẫn còn đối mặt với không ít thách thức trong quá trình triển khai

Tiến độ thương mại hóa và mở rộng đối tượng sử dụng

Trao đổi với 333 Việt Nam, TS. Nguyễn Văn Điệp, Tổng Giám đốc AVAC Việt Nam cho biết, tính đến nay AVAC đã cung ứng ra thị trường hơn 4 triệu liều vaccine ASF, trong đó khoảng 900.000 liều được xuất khẩu sang Philippines và Indonesia, trong nước khoảng 3,7 triệu liều vaccine. “Tháng 9 vừa qua, chúng tôi đã xuất sang Philippines 340.000 liều, còn tháng 6 là 120.000 liều sang Indonesia. Một số quốc gia khác như Malaysia và Ấn Độ đang trong giai đoạn hoàn tất thủ tục nhập khẩu.” TS. Điệp chia sẻ.

Trong nước, số lượng trại chăn nuôi sử dụng vaccine đang tăng lên sau khi tính an toàn và hiệu quả được chứng minh qua thực tế. Hiện vaccine được cấp phép cho heo thịt, và AVAC đang phối hợp với Cục Thú y để mở rộng đăng ký sử dụng cho heo nái và đực giống. Việc này được đánh giá là cần thiết nhằm tăng độ bao phủ tiêm phòng và hướng đến miễn dịch quần thể, giúp kiểm soát ASF hiệu quả hơn.

Thách thức trong triển khai và niềm tin thị trường

Theo TS. Điệp, thách thức lớn nhất hiện nay không chỉ nằm ở khâu nghiên cứu mà còn ở quá trình thuyết phục thị trường. “Nghiên cứu vaccine đã khó, nhưng đưa nó vào sử dụng thực tế còn khó hơn. Người chăn nuôi, đặc biệt là các hộ nhỏ lẻ, vẫn còn tâm lý dè dặt. Vì vậy, cần thêm thời gian và dữ liệu thực tế để chứng minh tính ổn định, an toàn và hiệu quả bảo hộ,” ông nhận định.

Bên cạnh đó, việc hoàn thiện hành lang pháp lý và xây dựng bộ dữ liệu đánh giá đa chiều về vaccine cũng là những rào cản đáng kể. Các dữ liệu này không chỉ phục vụ cơ quan quản lý mà còn là cơ sở khoa học giúp cộng đồng chăn nuôi hiểu đúng về cơ chế và giới hạn của vaccine ASF hiện nay.

Sự xuất hiện của chủng virus lai và vấn đề bảo hộ chéo

Một trong những thách thức kỹ thuật đáng chú ý hiện nay là sự lưu hành ngày càng tăng của các chủng virus lai giữa Genotype I và Genotype II. Các phân tích gần đây tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ xuất hiện của chủng lai này đang tăng, gây áp lực lớn cho các chương trình tiêm phòng.

Theo TS. Điệp, các thử nghiệm công cường độc do AVAC thực hiện cho thấy vaccine hiện hành chỉ bảo hộ một phần đối với chủng lai genotype I/II, đặc biệt khi thử thách ở liều công cao. “Ở mức công cường độc cao, heo tiêm vaccine vẫn có thể nhiễm bệnh; tuy nhiên, khi giảm liều công xuống mức tương đương điều kiện phơi nhiễm tự nhiên (khoảng 10–20 HAD50), heo tiêm vaccine được bảo hộ rõ rệt so với nhóm đối chứng,” ông cho biết.

Quan sát tại các trại thương mại cũng cho kết quả tương đồng. Tỷ lệ bùng phát ASF ở những trại đã tiêm vaccine thấp hơn đáng kể so với các trại chưa tiêm, cho thấy vaccine có tác dụng làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh và nâng ngưỡng bùng phát dịch. “Chúng tôi cho rằng vaccine giúp tăng sức chống chịu của đàn heo trước các nguồn phơi nhiễm liều thấp, ví dụ qua phương tiện, dụng cụ, giày dép. Nhờ đó, nhiều trại có tiêm vaccine không ghi nhận bùng phát dịch ngay cả khi có sự xâm nhập của virus.” TS. Điệp phân tích.

Hiện AVAC đang phối hợp với các viện nghiên cứu độc lập để tiếp tục đánh giá khả năng bảo hộ chéo giữa các chủng ASF khác nhau, cũng như xác định ngưỡng công cường độc thực tế phản ánh điều kiện sản xuất. Những dữ liệu này được kỳ vọng sẽ giúp hiểu rõ hơn về hiệu quả thực tế và giới hạn bảo hộ của vaccine ASF thương mại.

Trong bối cảnh virus ASF tiếp tục biến đổi, việc duy trì theo dõi, cập nhật chủng lưu hành và đánh giá hiệu quả bảo hộ chéo sẽ đóng vai trò quyết định trong nỗ lực kiểm soát dịch bệnh lâu dài của ngành chăn nuôi heo.

X
XLinkedinWhatsAppTelegramTelegram
2 ThíchBình luậnMục yêu thích của tôi

Liên hệ:

Liên hệ với chúng tôi bằng biểu mẫu sau.

333 Việt Nam có trong các danh mục sau